Giới thiệu chung
Nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân, giảm thời gian chờ đợi và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực hành chính công, tối ưu hóa trải nghiệm của người dân khi thực hiện thủ tục hành chính. Trung tâm Phục vụ hành chính công thành phố Hà Nội trân trọng thông báo:
Từ ngày 19/5/2025, Trung tâm Phục vụ hành chính công Thành phố chính thức triển khai tính năng thực hiện lấy số thứ tự online trên Ứng dụng iHanoi để làm thủ tục hành chính tại tất cả các chi nhánh thuộc Trung tâm
Những lợi ích nổi bật khi lấy số online:
- ✅ Tiết kiệm thời gian chờ đợi tại quầy giao dịch.
- ✅ Giảm thiểu tụ tập đông người, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn.
- ✅ Nâng cao hiệu quả và tính chủ động cho người dân, doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ công.
Hướng dẫn lấy số online trên ứng dụng iHanoi:
Bước 1. Tải và đăng nhập iHanoi bằng số điện thoại hoặc tài khoản VNeID.
Từ màn hình trang chủ ứng dụng iHanoi, chọn chức năng “Dịch vụ công”
Bước 2. Chọn chức năng “Đặt lịch”à chọn Chi nhánh và Lĩnh vực cần thực hiện.
Bước 3. Hệ thống sẽ tự động cấp số thứ tự trực tuyến.
Lưu ý: - Mỗi công dân chỉ được đăng ký online 01 số thứ tự mỗi ngày cho 01 lĩnh vực trên iHanoi;
- Công dân có thể lấy số online trên iHanoi từ 20h tối hôm trước cho đến khi phát hết số.
?? HƯỚNG DẪN ĐĂNG NHẬP VÀ XÁC THỰC TÀI KHOẢN TRÊN ỨNG DỤNG IHANOI
Cách 1: Dành cho người dân đã có tài khoản VNeID. Sử dụng tài khoản VNeID để đăng nhập và xác thực trên ứng dụng iHanoi.
Bước 1: Vào ứng dụng iHanoi, chọn chức năng Tài khoản.
Bước 2: Tại màn hình yêu cầu đăng ký/đăng nhập, chọn Đăng nhập bằng VNeID.
Bước 3: Hệ thống điều hướng mở ứng dụng VNeID, nhập CCCD và mật khẩu để đăng nhập ứng dụng VNeID, chọn đồng ý chia sẻ thông tin với ứng dụng iHanoi.
Bước 4: Hệ thống điều hướng về lại ứng dụng iHanoi. Cập nhật các thông tin theo yêu cầu, chọn Cập nhật.
Bước 5: Nhập mã OTP được gửi về số điện thoại cá nhân. Chọn Tiếp tục để hoàn tất việc đăng nhập và xác thực tài khoản trên iHanoi.
Cách 2: Dành cho người dân đăng ký tài khoản bằng số điện thoại trên iHanoi.
Bước 1: Truy cập ứng dụng iHanoi, đăng nhập tài khoản bằng số điện thoại.
Bước 2: Tại chức năng Tài khoản, chọn vào yêu cầu xác thực thông tin cá nhân.
Bước 3: Chọn Liên kết với tài khoản VNeID hoặc Quét mã QR trên CCCD.
Trường hợp chọn Liên kết với tài khoản VNeID
- Hệ thống điều hướng mở ứng dụng VNeID, nhập CCCD và mật khẩu để đăng nhập ứng dụng VNeID, chọn đồng ý chia sẻ thông tin với ứng dụng iHanoi => Hệ thống điều hướng về lại ứng dụng iHanoi, hoàn tất việc xác thực tài khoản trên iHanoi.
Trường hợp chọn Quét mã QR trên CCCD.
- Thực hiện quét mã QR trên CCCD => chọn Xác thực thông tin để hoàn tất việc xác thực tài khoản trên iHanoi.
CẢNH BÁO: NGHIÊM CẤM HÀNH VI LẤY SỐ THỨ TỰ “ẢO” KHI LÀM THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân và nâng cao chất lượng phục vụ trong giải quyết thủ tục hành chính, Thành phố Hà Nội yêu cầu người dân nghiêm túc tuân thủ các quy định khi đăng ký lấy số thứ tự qua ứng dụng iHanoi hoặc tại Trung tâm Phục vụ Hành chính công Thành phố.
Mọi hành vi lợi dụng hệ thống lấy số thứ tự như sau đều bị coi là vi phạm:
Lấy nhiều số thứ tự cho cùng một thủ tục trong cùng một ngày;
Sử dụng thông tin giả mạo hoặc không đúng với người trực tiếp đến thực hiện;
Nhờ người khác lấy số hộ nhưng không đến làm thủ tục;
Tạo hàng ảo nhằm chiếm chỗ, gây ùn tắc và kéo dài thời gian chờ đợi của người dân khác.
Đây là những hành vi gian lận, không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống dịch vụ công mà còn làm giảm hiệu quả phục vụ, gây bức xúc trong cộng đồng.
Hậu quả của hành vi lấy số ảo:
Bị từ chối phục vụ tại quầy nếu thông tin người đăng ký không trùng khớp với người đến thực hiện.
Bị thu hồi quyền sử dụng tính năng lấy số trực tuyến trên ứng dụng iHanoi.
Thông tin vi phạm có thể bị đưa vào danh sách theo dõi và xử lý hành chính theo quy định pháp luật.
Hãy hành xử văn minh – sử dụng dịch vụ công bằng và đúng quy định!
Thành phố Hà Nội kêu gọi mỗi người dân hãy là một “công dân số” trách nhiệm, cùng chung tay xây dựng nền hành chính hiện đại – không giấy tờ, không tiếp xúc, toàn trình, liền mạch.
Trên đây là thông tin báo chí việc triển khai thí điểm tính năng lấy số thứ tự trực tuyến tại Trung tâm Phục vụ hành chính công thành phố Hà Nội, Trung tâm trân trọng thông báo để các đơn vị biết và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng./.
TRUNG TÂM PHỤC VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG THÀNH PHỐChiến thắng Điện Biên Phủ là chiến công vang dội của một dân tộc vốn là thuộc địa, đánh thắng quân đội hiện đại của một đế quốc. Đây cũng là chiến thắng điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của tinh thần quật cường, bất khuất, trí thông minh, sáng tạo và sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc. Cánh đồng Điện Biên Phủ có chiều dài khoảng 18km, chiều rộng từ 6km đến 8km. Đây là cánh đồng lớn nhất, giàu có nhất và dân cư đông đúc nhất ở Tây Bắc. Điện Biên Phủ ở gần biên giới Việt Nam – Lào, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng, phía đông bắc nối liền với Lai Châu, phía đông và đông nam nối liền với Tuần Giáo, Sơn La, Nà Sản, phía tây thông với Luông Prabăng, phía nam thông với Sầm Nưa (Lào). Đối với thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, vùng Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân có tác dụng rất lợi hại trong âm mưu xâm lược vùng Đông Nam Á.
Đánh giá đây là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20 tháng 11 năm 1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương, một “pháo đài bất khả xâm phạm”, một “con nhím” hoàn hảo được tổ chức phòng ngự theo kiểu hiện đại, là nơi “nghiền nát chủ lực của Việt Minh”.
Sau khi phân tích tình hình trên các chiến trường, đầu tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị quyết định tập trung lực lượng mở chiến dịch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Từ đây, một cuộc động viên sức người, sức của của toàn dân tộc đã được triển khai, với quy mô lớn chưa từng có. Công nhân, nông dân, trí thức, học sinh, nhà buôn và cả một số địa chủ, tư sản, ai ai cũng sẵn lòng góp công, góp của.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, cả nước đã dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Tổng kết toàn chiến dịch, nhân dân cả nước huy động được 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917 tấn thực phẩm khác… Huy động 216.451 lượt dân công bằng 12 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng. Đồng bào nhiều địa phương cùng sát cánh bên nhau xẻ núi, san đồi, làm đường, phá thác để mở lối cho quân đi, cho thuyền chở hàng qua lại. Chỉ có sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần yêu nước nồng nàn mới tạo nên khí thế cả nước ra trận. Và chính nhờ những nỗ lực đó mà điều lo lắng và khó khăn nhất tưởng chừng như không thể vượt qua là vấn đề hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 49 cứ điểm, được chia làm 3 phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ. Đợt 1 của chiến dịch mở màn ngày 13 tháng 3 năm 1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt 2 diễn ra ngày 30 tháng 3 năm 1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt 3 chiến dịch diễn ra ngày 1 tháng 5 và kết thúc ngày 7 tháng 5 năm 1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Năm mươi sáu ngày đêm chiến đấu gian khổ là “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”, là năm mươi sáu ngày đêm quả cảm của những chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng “đầu bịt lỗ châu mai”, “chèn lưng cứu pháo”, “xẻ núi lăn bom”, “dù bom đạn xương tan, thịt nát, Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”… để đất nước đi đến mốc son lịch sử chói lọi ngày 7 tháng 5 năm 1954, khi Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” tung bay trên nóc hầm sở chỉ huy tướng Đờ Cát, báo hiệu Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng vĩ đại này đã mở ra giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó còn là chiến thắng có tầm vóc quốc tế, góp phần làm xoay chuyển cục diện thế giới, mở ra trang sử mới cho nhân loại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Nhờ sự đoàn kết chặt chẽ và anh dũng hy sinh của toàn quân và toàn dân ta, chúng ta đã đại thắng ở Điện Biên Phủ”. Chính sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy được phát huy cao độ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ mà tướng Navare – Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương – đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”.
Bảy mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử, tầm vóc thời đại và những bài học kinh nghiệm quý báu của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần làm cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Phát huy tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ năm xưa và tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc hôm nay, đất nước ta đang vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình – kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Ngô Mạnh Đức - ST
11h30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, thời khắc lịch sử cả dân tộc ta mong đợi đã đến, quân ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp phới bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Tin chiến thắng vang lên khắp mọi miền Tổ quốc. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, miền Nam vẫn phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, toàn thể dân tộc Việt Nam trước sau như một đoàn kết đồng lòng, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ, hoàn thành cho kỳ được mục tiêu Tổ quốc thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Ở miền Bắc, sau kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho đấu tranh thống nhất nước nhà, miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản xóa bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, kiên cường, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Dù đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai thực thi những chính sách tàn ác như “tố cộng, diệt cộng”, Luật 10/59 để biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, khiến cách mạng miền Nam bị dìm trong bể máu, hay những chính sách chiến tranh thâm độc như “Chiến tranh đặc biệt” mà thực chất là dùng người Việt đánh người Việt, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm mở rộng chiến tranh, thực hiện chiến tranh hủy diệt, song “Nhân dân Việt Nam quyết không sợ”. Chiến thắng ban đầu của cao trào Đồng Khởi (1959 - 1960) đã làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, tiếp theo đó là những chiến thắng vang dội Ấp Bắc (1963), Bình Giã (1964 - 1965), Ba Gia, Đồng Xoài (1965), Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Bàu Bàng… lần lượt làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán.
Ở miền Bắc, quân dân ta tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Với thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc bằng máy bay B52 của Mỹ, đỉnh cao là chiến thắng oanh liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, chúng ta đã khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973 về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 4/3/1975 với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
Cùng với giải phóng trên đất liền, ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công các đảo thuộc vùng biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa, giành lại chủ quyền các đảo vào ngày 29/4/1975. Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975, bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử 30/4/1975, Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976) khẳng định: Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.
Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Dù muôn trùng khó khăn, chúng ta vẫn kiên cường bảo vệ vững chắc lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam; đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc. Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra gay gắt, tỷ lệ lạm phát có khi lên đến 774,7%, đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ.
Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, sau 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi Mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư. Năm 2024, quy mô GDP theo giá hiện hành ước đạt hơn 11.500 tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD; giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới, khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam ước đạt 17,6 triệu lượt. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực: kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%; chỉ số hạnh phúc của Việt Nam xếp thứ 54/143, chỉ số phát triển bền vững (SDGs) xếp thứ 54/166. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều mặt. Việt Nam đã mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 12 nước đối tác chiến lược toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đóng góp vào thành tựu chung của đất nước, với sự chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thủ đô, kinh tế - xã hội của Hà Nội liên tục đạt nhiều kết quả quan trọng. Năm 2024, Hà Nội đóng góp 16% GDP cả nước, 18,5% thu ngân sách, 20% thu nội địa, xứng đáng với vai trò là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước. Quý I/2025, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính tăng 7,35% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao trong 5 năm gần đây; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý cao nhất cả nước, đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, tăng 43,8%; thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 3 cả nước, đạt 1,4 tỷ USD, tăng 49,5%; an sinh xã hội được đảm bảo. Hà Nội còn là địa phương đi đầu trong thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Thành phố tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “luồng xanh”, “làn xanh” nhằm đơn giản hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính; thực hiện phân cấp, ủy quyền triệt để, giảm thiểu các bước trung gian nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng GRDP trên 8%, tạo đà cho tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tiếp theo.
Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam./.
Nhiệt liệt chào mừng 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)!
BBT- ST
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện xây dựng Nông thôn mới nâng cao đến năm 2024
xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội
Bảng điểm chấm nông thôn mới nâng cao: Xem chi tiết tại đây
Thôn Kim Thượng – xã Kim Lũ – huyện Sóc Sơn – Hà Nội là một làng quê ở phía nam cuối huyện Đa Phúc xưa, nay là huyện Sóc Sơn ngoại thành Hà Nội giàu truyền thống văn hóa.
Đình Kim Thượng được tọa lạc tại trung tâm thôn Kim Thượng thuộc xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, với tổng diện tích 1.484m2 (phía trước Đình là một ao Đình chiếm 1.206,2m2) đình quay hướng Tây. Là nơi thờ tự thánh Hoàng làng Quý Minh, Đống Vĩnh, Đức thánh Tam Giang ( Trương Hống và Trương Hát), người đã có công lớn giữ yên bờ cõi, có công với dân, với nước. Đình còn là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng.
Đình Kim Thượng được xếp hạng di tích lịch sử cấp Thành phố năm 2003. Song, trải qua thời gian, đến nay, nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp, ảnh hưởng tới cảnh quan di tích.
Được sự quan tâm của Nhà nước, năm 2022, Đình Kim Thượng được tiến hành tu bổ, tôn tạo với tổng mức đầu tư trên 26 tỷ đồng. Một đặc điểm rõ nét trong kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí ở đình có một mối quan hệ hữu cơ thống nhất. Sự hài hòa giữa kiến trúc và điêu khắc là đặc điểm bao trùm của toàn bộ công trình. Ở đây, ngoài những dụng công trong nghệ thuật kiến trúc ra thì vẻ đẹp của nghệ thuật điêu khắc được thể hiện ở các mảng chạm khắc dày đặc trên các đầu kẻ bẩy, các bức cốn mê đến các con rường... Những mảng chạm khắc ấy đã làm tròn chức năng thẩm mỹ, góp phần làm tôn lên vẻ đẹp của đình. Rõ ràng sự gia công của trí tuệ con người đã nâng hiệu quả bố trí không gian bên trong và kết cấu hình khối bên ngoài ngôi đình lên cao trên cả ba hình diện nghệ thuật, kỹ thuật và tư tưởng.
Đình Kim Thượng không những là nơi thờ tự, tổ chức lễ hội, mà ngôi đình còn gắn liền với lịch sự Kết nghĩa hai dân “Kim Lũ – Châu Lỗ”. Theo đó đúng 430 năm trước, tức năm Giáp Ngọ 1594, có một câu chuyện kết nghĩa huynh đệ sâu nặng tình cảm giữa hai ngôi làng ở đôi bờ sông. Hơn bốn thế kỷ thâm giao giữa người dân làng Châu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang và làng Kim Thượng, nay là xã Kim Lũ , huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội đã trở thành một truyền thống đẹp trong phong tục văn hoá làng xã ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
Theo lịch sử của đất nước, vào tháng 3-1593, Trịnh Tùng cùng các quan văn đón vua Lê ra Thăng Long sau khi đã đuổi được quân nhà Mạc. Ngày 16-4, vua lên chính điện ban chiếu đại xá thuế toàn thiên hạ và cho nhân dân mở hội ăn mừng chiến thắng. Hưởng ứng ngày hội vui chung của đất nước đã thoát khỏi cảnh binh đao khói lửa, đêm 11-9-1593 dân Kim Thượng định giết một con trâu trắng để làm lễ tế thần và để dân làng liên hoan. Không ngờ con trâu lồng lên làm đứt dây chạc rồi chạy mất. Dân làng Kim Thượng hối hả đổ đi tìm nhưng không thấy
Sáng sớm ngày 12-9, dân làng Châu Lỗ làm lễ tế thần ở đình đều ngạc nhiên khi thấy con trâu trắng rất lạ không biết từ đâu đến. Trâu nằm phục ngoài bãi cỏ trước cửa đình làng. Cũng sáng hôm ấy, dân Kim Thượng sau khi hỏi thăm tin tức ở các vùng lân cận biết tin trâu trắng đã bơi vượt sông Cầu sang tận Châu Lỗ, họ bèn vào đình làng Châu Lỗ gặp các cụ cao niên xin chuộc trâu. Các cụ bên Châu Lỗ mời khách trà nước và nói: Người là vàng, của là ngãi, không may trâu đứt chạc chạy sang đây, dân chúng tôi giữ giúp, nay xin trả lại chứ đâu dám lấy tiền chuộc của các ông.
Dân Kim Thượng rất cảm kích tấm lòng của người Châu Lỗ bèn dắt trâu về.
Nhưng không ngờ con trâu trắng cứ nằm im và ngóc đầu về phía đình làng Châu Lỗ, không ai kéo đi được. Như một điềm trời báo, người Kim Thượng bèn cử người mang đồ sang đình Châu Lỗ làm lễ tạ thánh thần. Khi lễ xong thì người Kim Thượng mới dắt được con trâu trắng về làng mình.
Sau sự kiện ấy thì dân hai làng đã mệnh danh con trâu trắng với cái tên rất kính trọng là “Ngưu Tinh”. Ngưu Tinh chính là ngôi sao trên trời ứng vào con trâu trắng ấy để tạo ra một sợi dây vô hình ràng buộc mối tình giữa dân hai làng Kim - Châu, tiến tới sự kết nghĩa huynh đệ sau này...
Đến ngày 12-9 năm Giáp Ngọ, dân làng đôi bên quyết định chọn đình làng Châu Lỗ sát sông Cầu làm lễ kết nghĩa huynh đệ với lời thề thuỷ chung, son sắt: Bản kết nghĩa tình huynh đệ hai làng gồm hai tập sách dịch từ chữ Nôm với năm điều quy ước đó là : Nam từ 15 tuổi trở lên mới được gánh góp việc của hai dân; Chỉ giao dịch việc công, không giao dịch tư; Hai làng không được kết hôn với nhau; Giúp nhau trên tình nghĩa vô tư, không suy bì thiệt hơn, không hoàn lại; Người đến cư trú từ ba đời trở lên phải được dân đồng ý mới được gánh góp việc hai làng. Ngoài ra, để tỏ lòng kính trọng, quý mến, dân hai làng gọi nhau là “dân Anh”
Với những giá trị lịch sử văn hóa, nghệ thuật, ngôi Đình Kim Thượng không chỉ đơn thuần là nơi thờ cúng linh thiêng của cộng đồng, là không gian sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, mà còn là “chứng nhân” của lịch sử, cùng trải qua biết bao thăng trầm, biến cố của thời gian. Vì lẽ đó, bất cứ ai đến đây, đều bị níu chân bởi vẻ đẹp kiến trúc tuy giản đơn, thô mộc nhưng tinh xảo, cổ kính, không bề thế, phô trương mà rất gần gũi, thân thiết. Có thể nói, Đình Kim Thượng không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh, là sợi dây gắn bó cộng đồng, là thiết chế văn hóa tín ngưỡng trong dân gian.
Ngô Mạnh Đức - VHTT